Công đoàn Việt Nam được thành lập vào ngày 28/7/1929. Đây là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ tri thức và những người lao động tự nguyện thành lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhận Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 – 28/7/2019), bài viết này xin giới thiệu sơ lược quá trình hình thành và phát triển của tổ chức công đoàn để bạn đọc tham khảo.
1. Sự ra đời của tổ chức công đoàn Việt Nam:
Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp lần thứ nhất (1897-1914), giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển nhanh chóng trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1918-1930). Do bị cả thực dân và phong kiến bóc lột hà khắc, giai cấp công nhận Việt Nam đã vùng lên đấu tranh mạnh mẽ. Vào những năm 1920 phong trào đấu tranh ở Việt Nam ngày càng phát triển và nhân rộng. Từ trong đấu tranh đã hình thành tính giai cấp và những người công nhân tập hợp lại tổ chức các hội như: Tương tế, Phường hội, Ái hữu, Nghiệp đoàn, Công Hội… Tiêu biểu nhất trong số này là sự ra đời của Công Hội Ba Son do Tôn Đức Thắng thành lập (1920) tại Sài Gòn. Mặc dù số lượng công hội còn ít nhưng những công hội đầu tiên này chính là người đặt nền móng và chịu ảnh hưởng của tư tưởng công đoàn cách mạng và cũng là mầm móng quan trọng cho phong trào công nhân và phong trào công đoàn Việt Nam. Tháng 8/1925 tuần dương hạm Pháp Julex Michelet đã bị hỏng máy trên đường đến Trung Quốc trấn áp các cuộc cách mạng buộc phải ghé vào xưởng Ba Son để sửa chữa. Nhân cơ hội này đồng chí Tôn Đức Thắng đã tập hợp các thành viên Hội Ba Son bàn biện pháp tổ chức đấu tranh. Ban lãnh đạo đình công được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tôn Đức Thắng với mục đích giữ chân chiến hạm này nhằm làm phá sản kế hoạch đàn áp phong trào cách mạng thế giới. Cuộc bãi công nổ ra với sự tham gia của toàn bộ công nhân Ba Son với các yêu sách như tăng lương, nhận lại công nhân đã bị nghỉ việc trước đây, điều chỉnh thời gian làm việc…Sau gần 04 tháng đấu tranh bền bỉ, cuối cùng yêu sách của các công nhân cũng được chấp nhận một phần. Đây là cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên của công nhân Nam Kỳ và công nhân cả nước, đã có tác động lớn trong nước, gây tiếng vang trong phong trào cách mạng vô sản và công nhân thế giới.
Vào những năm 1928-1929 chủ nghĩa Mác – Lenin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam đã làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của phong trào công nhân và các tổ chức công hội đòi hỏi phải có một tổ chức Mác xít, một Đảng thực sự cách mạng của giai cấp công nhân có khả năng tập hợp, lãnh đạo công nhân đấu tranh giành độc lập tự do. Tháng 3/1929 Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. tiếp đến ngày 17/6/1929 Động Dương cộng sản Đảng ra đời. Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của công tác vận động công nhân và tăng sức mạnh cho tổ chức Công Hội Đỏ, ban chấp hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng quyết định triệu tập đại hội thành lập Tổng Công Hội đỏ Bắc kỳ vào ngày 28/7/1929 tại số nhà 15, phố Hàng Nón - Hà Nội. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là người đứng đầu Ban chấp hành lâm thời Tổng Công Hội đỏ Bắc Kỳ. Sự kiện này là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân Việt Nam có một đoàn thể cách mạng rộng lớn, hoạt động có tôn chỉ, mục đích, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo công nhận lao động.
Chính vì ý nghĩa đó, theo đề nghị của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, bộ chính trị TW Đảng cộng sản Việt Nam quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày truyền thống của tổ chức công đoàn Việt Nam.
2. Quá trình phát triển của tổ chức Công đoàn Việt Nam:
Công hội Đỏ (1929-1935):
Có thể nói đây là giai đoạn đầy thử thách đối với tổ chức Công Hội Đỏ - một đoàn thể cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân Việt Nam. Với tinh thần hăng hái, quyết tâm cao, là đội tiên phong của Đảng cộng sản Việt Nam, Công Hội Đỏ đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc vận động công nhân lao động đấu tranh với nhiều hình thức, góp phần củng cố lực lượng, từng bước gây dựng phong trào cách mạng.
Nghiệp đoàn Ái Hữu, Hội công nhân phản đế, Hội công nhân cứu quốc (1935-1946)
Giai đoạn 1936-1937 phong trào đấu tranh của công nhân đòi thành lập nghiệp đoàn dâng cao. Mặc dù bị ngăn cản nhưng tại nhiều nơi trong cả nước các nghiệp đoàn vẫn được thành lập và hoạt động công khai, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng, Vinh…Trong giai đoạn này nổi bật nhất là hoạt động của Nghiệp đoàn Ái Hữu do giai công công nhân thành lập. Nghiệp đoàn Ái Hữu hoạt động mạnh mẽ và sôi nổi khiến cho thực dân Pháp hết sức lo lắng. Tháng 9/1939 bọn đế quốc ra sức đàn áp và ra lệnh giải tán Nghiệp đoàn Ái Hữu. Để phù hợp với tình hình mới, nghiệp đoàn Hữu Ái rút vào hoạt động và lấy tên “Hội công nhân phản đế”. Đến năm 1941, khi Mặt trận Việt Minh được thành lập, “Hội công nhân phản đế” trở thành “Hội công nhân cứu quốc”.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1946-1961)
Sau khi giành được chính quyền, tại kỳ họp thứ II Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946) đã dự thảo Dự án Luật lao động trong đó đề cập đến nhiều nội dung lien quan đến quyền lợi của người lao động. Để thống nhất về tổ chức trên phạm vi cả nước, Hội nghị cán bộ công đoàn cứu quốc toàn quốc đã đổi tên “Hội công nhân cứu quốc” thành “Công đoàn”, thống nhất tất cả các tổ chức công đoàn trong cả nước, lấy tên Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. Tháng 7/1946, tại nhà hát lớn Hà Nội, Tổng lien đoàn lao động Việt Nam chính thức ra mắt.
Tổng công đoàn Việt Nam (1961-1988)
Tháng 2/1961 Đại hội công đoàn lần thứ II được tổ chức với mục tiêu “Động viên cán bộ, công nhân, viên chức thi đua lao động sản xuất, xây dựng XHCN ở miền bắc, với tinh thần Mỗi người làm việc bằng hai vì Miền Nam ruột thịt, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Tháng 2/1974 Đại hội công đoàn lần thứ III được tổ chức, đại hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng - chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa làm chủ tịch danh dự. Mục tiêu Hội nghị là “ Động viên sức người, sức của, chi viện cho chiến trường, tất cả để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước”.
Năm 1975 miền Nam được giải phóng. Tổng công đoàn Việt Nam (Miền bắc ) và Liên hiệp công đoàn giải phóng Miền Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đến tháng 6/1976 Hội nghị thống nhất công đoàn toàn quốc tổ chức và quyết định lấy tên là Tổng công đoàn Việt Nam.
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1988 - nay)
Tháng 10/1988 Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ VI tổ chức, Đây là đại hội đầu tiên của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn bước vào thời kỳ đổi mới. Đại hội đã đổi tên “ Tổng Công đoàn Việt Nam” thành “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam” và xác định mục tiêu là “Vì việc làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua hệ quốc tế của Công đoàn Việt Nam từng bước được mở rộng. Đội ngũ công nhân, viên chức lao động trong cả nước đã rỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo, nỗ lực vươn lên trong lao động và công tác… giữ vai trò quyết định, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.