Image
Loading
07/03/2025 12:00 SA
Những viên than luyện không chỉ là hiện vật quý phản ánh quá trình khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp ở Vùng mỏ mà còn hàm chứa nhiều thông tin về sự hình thành và phát triển của Ngành công nghiệp đường sắt ở Việt Nam trong thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21.

Theo các tư liệu lịch sử, từ năm 1881 viên Công sứ Pháp tên là Fuche Saladin đã đến Vùng mỏ để nghiên cứu tiềm năng than đá ở Hòn Gai. Năm 1883, viên trung tá hải quân Pháp Henri Rivière liền đem quân đánh chiếm Quảng Yên, chiếm lấy mỏ than Hòn Gai và đặt 1 đồn binh canh giữ gồm có 25 binh sĩ. Sau đó, triều đình nhà Nguyễn đã ký văn tự bán khu mỏ cho Thực dân Pháp với thời hạn lên đến 100 năm[1]. Chiếm được khu mỏ, Thực dân Pháp nhanh chóng đặt ách cai trị và tranh thủ khai thác than. Ngày 28/4/1888, một Công ty khai thác than đá lớn nhất nước Pháp được thành lập mang tên Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ, được giao quyền quản lý, khai thác vùng đất nhượng địa rộng lớn kéo dài từ Mông Dương đến Mạo Khê. SFCT có trụ sở chính đặt tại số 64, phố Chaussée-d’Antin-Quận 9-Paris. Số vốn ban đầu khi mới thành lập là 4 triệu Frcs đến năm 1943 tăng lên đến hơn 200 triệu Frcs.

Tại Vùng mỏ, Thực dân Pháp thành lập Công ty Than Kế Bào (địa bàn ở huyện Vân Đồn ngày nay) với số vốn ban đầu lên đến 3 triệu Phơ - răng, số lượng công nhân lên đến 6 nghìn người với sản lượng khai thác khoảng 30 nghìn tấn. Những cơ sở hạ tầng mà Thực dân Pháp xây dựng cho thấy quyết tâm vơ vét tài nguyên than và bóc lột sức lao động giá rẻ ở Vùng mỏ. Đồng thời,Thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay xây dựng những công trình hạ tầng, như: Cổng vòm, nhà điều hành, biệt thự cai ký, chủ mỏ, nhà tù, nhà máy sàng rửa than, 1 cây cầu tàu và 2 sàn tàu, v.v.. Ngược lại, những công trình không trực tiếp liên quan đến sản xuất như: Giao thông, thông tin liên lạc, điện nước sinh hoạt lại không được Thực dân Pháp ưu tiên làm trước.

Hiện tại, cổng kiểu vòm cuốn cổ kính cạnh gốc cây quéo già đã trải qua hơn một trăm năm. Trước, có hai cánh cổng sắt khép kín, bên phải cổng có làm bậc cho đám lính “com-măng-đô” lên nóc cổng canh gác. Phía sau cổng có các ông chủ mỏ và đội cai ký với đòn roi và hình phạt, bóc lột. Đồng thời cũng là một xã hội xa hoa đối lập với đời sống đen tối của phu mỏ cần lao. Cái cổng đó đã chứng kiến cảnh những tên chủ mỏ Pháp cuối cùng rút khỏi nước ta[2]. Sau đó, nơi đây được chọn làm cổng trụ sở của Xí nghiệp Than quốc doanh Hòn Gai năm 1955, tiền thân của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam ngày nay. Di tích trụ sở Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ tọa lạc tại số 95A, đường Lê Thánh Tông, phường Hồng Gai, Thành phố Hạ Long, được Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam dùng làm Trung tâm Điều hành sản xuất tại Quảng Ninh nhiều năm nay. Trụ sở Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ đã được UBND tỉnh xếp hạng là Di tích cấp tỉnh vào năm 2021.

Ngày 19/02/2025, Bảo tàng Quảng Ninh tổ chức tiếp nhận hai viên than luyện có giá trị lịch sử đặc biệt do gia đình ông Vương Hữu Phú ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh trao tặng. Đây là hai viên than luyện khác hoàn toàn so với than thành phẩm hiện đang dùng hôm nay. Thực tế, không thể dùng than nguyên khai để chạy đầu máy xe lửa hay dùng cho công nghiệp luyện kim mà phải dùng than luyện với nhiệt lượng cao. Cũng theo lời ông, luyện than cốc là quá trình nung than trong điều kiện không có không khí (oxy) đến nhiệt độ trên 600 °C, loại bỏ các thành phần dễ bay hơi của than thô, để lại một vật liệu xốp cứng, mạnh, có hàm lượng carbon cao, được gọi là than cốc. Than cốc gần như hoàn toàn là hidrôcarbon. Độ xốp làm cho nó có thể cháy nhanh hơn (cũng như một tờ giấy so với một khúc gỗ). Khi một kilôgam than được đốt, nó giải phóng nhiều nhiệt hơn một kilôgam than thô ban đầu. Đồng thời người ta phải đóng bánh than thành khối hình hộp chữ nhật để dễ vận chuyển, sử dụng. Thực dân Pháp đã xây dựng tại Hòn Gai 9 lò luyện than cốc với sản lượng tổng cộng lên tới 30 tấn. Đồng thời, Thực dân Pháp cũng xây dựng tại Hòn Gai Xí nghiệp đóng bánh than (người địa phương quen gọi là xí nghiệp than luyện) để đáp ứng nhu cầu của các công ty vận tải đường thủy và đường sắt. Than bánh được pha trộn theo tỷ lệ 75% than khai thác tại Quảng Ninh, 20% than béo, còn lại 5% là than có phẩm cấp bình thường.

Viên than luyện thứ 1 Thực tế cho thấy, từ lâu Thực dân Pháp chủ trương xâm nhập Trung Quốc, nhưng không thể đi đường thuỷ vì nước sông Hồng không đủ sâu ở thượng lưu sông, tàu bé không thể ngược đến Vân Nam. Đến khi ông Paul Doumer được cử làm toàn quyền Đông Dương đã đề nghị chính phủ Pháp cho làm con đường xe lửa Hải Phòng – Vân Nam. Đây thực sự là một miếng mồi béo bở, vì Vân Nam đất rộng của nhiều; đường sắt Hải Phòng - Vân Nam sẽ cho phép chúng vơ vét tài nguyên của vùng này chở ra cửa biển, nhập cảng một số lớn hàng hóa mà từ trước đến nay Vân Nam vẫn mua từ nơi khác.

Những viên than luyện sản xuất tại Hòn Gai được dùng cho ngành công nghiệp đường sắt. Trong quá trình khai thác thuộc địa, Thực dân Pháp đã xây dựng ở Việt Nam những tuyến đường sắt nội địa và đường sắt quốc tế nhằm thông thương hàng hoá. Theo ông Vương Hữu Phú, viên than có khắc chữ YUNNAN SFCT là than dùng cho tuyến đường sắt Hải Phòng -Vân Nam vì có nhiệt lượng cao hơn cũng chỉ có than luyện ở Vùng mỏ Quảng Ninh mới chạy được đầu máy hơi nước xe lửa. YUNNAN là phiên âm theo lối La tinh của Vân Nam; còn SFCT là tên Công ty Pháp mỏ Than Bắc Kỳ như đã biết. Viên than có kích thước 240x170x140mm, nặng 5,45kg được ép bằng máy Biétrix nặng 90 tấn do nước Bỉ sản xuất, Thực dân Pháp mua về.

Tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam nối giữa thành phố Hải Phòng và thành phố Côn Minh (Vân Nam) Trung Quốc là tuyến đường sắt khổ 1.000 mm được xây vào năm 1901 và kéo dài đến năm 1910, băng qua những vùng núi cao vực sâu hết sức hiểm trở tốn bao mồ hôi thậm chí cả xương máu của những công nhân người Việt. Tuyến đường sắt này dài 855 km, trong đó 390 km nằm trên lãnh thổ Việt Nam (từ Hải Phòng lên đến Lào Cai), và 465 km trên lãnh thổ Trung Quốc (từ Hà Khẩu lên đến Côn Minh). Thời gian xây dựng tuyến đường sắt này được xây dựng trong vòng 10 năm, từ 1901 đến 1910.

Ý nghĩa lớn nhất của tuyến đường sắt này đã giải quyết đầu ra cho nông lâm thổ sản cung cấp nhiên liệu chủ yếu là than đá và đồng thời hình thành những trung tâm công nghệ để chế biến, luyện quặng, xuất cảng sau khi tìm thấy rất nhiều mỏ như: Kẽm, mỏ chì, mỏ đồng, mỏ sắt, mỏ than… rải rác từ Quảng Ninh đến Lào Cai. Tuyến đường sắt Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc vùng đồng bằng sông Hồng của Việt Nam và Tây Nam Trung Quốc[3].

Vì vậy, viên than có kích thước 240x170x140mm, nặng 5,45kg trên bề mặt có khắc chữ “SFCT”. Do Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ (tên đầy đủ bằng tiếng Pháp là Société Francaise des charbonnages du Tonkin) luyện ra nhằm phục vụ cho tuyến đường sắt trên.

Viên than luyện thứ 2 có kích thước 260x160x110 cm, nặng 5,65 kg, bề mặt không có chữ khắc lên có phẩm cấp thấp hơn được cho là sản xuất ra để dùng nội bộ trong Công ty Pháp mỏ than Bắc Kỳ phục vụ tuyến đường sắt trong nước. Ngành Đường sắt Việt Nam ra đời năm 1881 bằng việc khởi công xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho dài khoảng 70 km. Chuyến tàu đầu tiên khởi hành ở Việt Nam vào ngày 20 tháng 7 năm 1885. Những năm sau đó, mạng lưới đường sắt tiếp tục được triển khai xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam theo công nghệ đường sắt của Pháp với khổ đường ray 1m. Hàng loạt tuyến đường sắt được Thực dân Pháp xây dựng và đi vào hoạt động như: Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng Đăng, Tháp Chàm - Đà Lạt, Sài Gòn - Lộc Ninh và tuyến đường sắt Bắc - Nam.

Những đầu máy xe lửa dạng này tạo năng lượng bằng cách đốt cháy than luyện cốc. Như bên trên đã đề cập, nhà máy than luyện được cho là ra đời từ năm 1889. Sau năm 1955, chúng ta tiếp quản, duy trì hoạt động của nhà máy đến năm 1989. Như vậy, nhà máy than luyện đã tồn tại và hoạt động khoảng một thế kỷ. Than luyện ra đời bằng cách đóng viên trong máy ép Mideton do Thực dân Pháp đầu tư.

Từ khi, ngành công nghiệp đường sắt dừng dùng than mà chuyển sang chọn  nhiên liệu khác để chạy đầu máy xe lửa đến nay, các nhà sưu tập vẫn chưa có một ai công bố sở hữu được viên than luyện đóng bánh nào. Đặc biệt, việc sở hữu viên than luyện được dùng cho tàu hoả chạy tuyến quốc tế thì càng khó. Vì vậy, những viên than luyện vừa được sưu tầm về Bảo tàng Quảng Ninh là những hiện vật than luyện quý giá, có thể nói là duy nhất được tìm thấy đến nay. Ngay sau khi sưu tập, cán bộ chuyên môn của Bảo tàng Quảng Ninh đã phân tích đánh giá, kiểm kê và bảo quản cẩn thận vào kho. Để phát huy giá trị của hiện vật và giới thiệu đến công chúng giá trị lịch sử của hiện vật, trong thời gian tới đây, Bảo tàng Quảng Ninh đã tính đến việc bổ sung vào không gian trưng bày cố định về ngành Than. Đây là một trong những không gian trưng bày độc đáo, kể lại những câu chuyện thú vị về lịch sử, văn hóa công nhân Vùng mỏ Quảng Ninh, tạo sức hút, ấn tượng khi du khách tới tham quan.

Hồng Nguyên - Bảo tàng Quảng Ninh

[1] Xem thêm: Tạ Thị Thuý, Công nghiệp khai khoáng thời Pháp thuộc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2017, tr344.
[2] Xem thêm: Claude Bourrin (Lưu Đình Tuân dịch), Đông Dương ngày ấy, NXB Lao Động 2008, Hà Nội, tr56
[3] Xem thêm: Rrederic Hulot (Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Thục Hạp dịch), Đường sắt ở Đông Dương và Vân Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2022, tr233.

Tài liệu tham khảo chính:

1. Công ty Than Hòn Gai, 50 năm tiếp quản và phát triển, Hạ Long, 2005.
2. Công ty Than Vàng Danh, 60 năm truyền thống, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, 2024.
3. Công ty Tuyển than Hòn Gai, 50 năm xây dựng và phát triển, Hạ Long 2010.
4. Hoàng Tuấn Dương, Đi tìm nhân chứng năm 36, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2011.
5. Hoàng Tuấn Dương, Lịch sử công nhân Than Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2019.
6. Nhiều tác giả, Dấu ấn một vùng Than, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
7. Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam, 75 năm truyền thống công nhân Vùng mỏ, truyền thống ngành Than, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2011.
8. Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam, 80 năm vinh quang thợ mỏ Việt Nam, NXB Lao Động, Hà Nội, 2016.
9. Tạ Thị Thuý, Công nghiệp khai khoáng thời Pháp thuộc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2017.
10. Claude Bourrin (Lưu Đình Tuân dịch), Đông Dương ngày ấy, NXB Lao động 2008, Hà Nội.
11. Rrederic Hulot (Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Thục Hạp dịch), Đường sắt ở Đông Dương và Vân Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2022. 
trang chủ

Chia sẻ:
Ý KIẾN BÌNH LUẬN  Ý KIẾN BÌNH LUẬN
 
 
 

Bài nổi bật

Khai mạc triển lãm “Di sản thiên nhiên Thế giới – triển lãm đặc biệt Jeju Hàn Quốc”

Khai mạc triển lãm “Di sản thiên nhiên Thế giới – triển lãm đặc biệt Jeju Hàn Quốc”

  • 01/07/2023 12:00 SA

Sáng 30/6, tại Bảo tàng Quảng Ninh đã diễn ra buổi khai mạc trưng bày triển lãm: “Di sản thiên nhiên thế giới – Triển lãm đặc biệt JEJU HÀN QUỐC”. Triển lãm do Trung tâm di sản thế giới Jeju phối hợp với Trung tâm Văn hóa và Bảo...

Bài viết khác

Hệ thống di tích, khu lưu niệm tiêu biểu liên quan đến sự hình thành và phát triển của các Chi bộ Đảng ở Quảng Ninh

Hệ thống di tích, khu lưu niệm tiêu biểu liên quan đến sự hình thành và phát triển của các Chi bộ Đảng ở Quảng Ninh

  • 25/02/2025 12:00 SA

Quảng Ninh có nhiều di tích, khu lưu niệm liên quan về lịch sử ra đời, phát triển của Chi bộ Đảng tại Vùng mỏ. Hệ thống di tích này đang ngày càng chứng minh được giá trị lịch sử góp phần giáo dục truyền thống cách mạng và bồi...