Chùa Nhuệ Hổ tọa lạc ở khu Nhuệ Hổ, phường Kim Sơn, thị xã Đông Triều, đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xếp hạng là Di tích nghệ thuật cấp Tỉnh.
Chùa Nhuệ Hổ
Chùa được xây dựng từ bao giờ thì không biết chính xác, nhưng qua hệ thống bia đá còn lại trước cửa chùa thì ngày 20 tháng 12 năm Chính Hoà thứ 17 (1696) chùa đã được trùng tu sửa chữa. Như vậy, ít nhất chùa phải có trước đó khoảng gần 100 năm (đầu thế kỷ XVII). Chùa Nhuệ Hổ có quy mô cũng khá rộng lớn, khang trang bao gồm chùa chính, nhà tổ, nhà mẫu, nhà tăng, nhà sắp lễ, nhà bếp, vườn tháp, vườn bia, tam quan, sân, vườn, ruộng chùa, vườn cây ăn quả…
Tượng Phật Adiđà, chùa Nhuệ Hổ
Chùa được toạ lạc trong một khu đất rộng, xung quanh là cánh đồng lúa phì nhiêu màu mỡ, ruộng vườn xanh tốt, sáng sủa quang đãng. Chùa quay hướng Tây, đây là hướng ổn định phù hợp với sự vận hành của âm dương. Trước cửa chùa không xa là dòng chảy của sông Cầm và sông Đá Vách. Phía Nam là núi con Rùa và núi Đống Mả (tương truyền trên đó có mộ của hai vợ chồng giặc Ngô chết trận tại đó). Hai núi này tạo thành dãy núi Xanh Nhẫm của thị xã Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Với địa thế tiền, tả, hữu này trông như thể lưỡng long chầu thuỷ. Cho dù ở bất cứ nơi đâu, trên rừng núi cao hay đồng bằng thì ông cha ta vẫn chọn được thế đất cao, quang đãng và có dòng chảy để dựng chùa. Chùa Nhuệ Hổ còn được dựng xa khu dân cư để các chư phật không bị ô nhiễm bụi trần, để các tăng ni phật tử cùng chúng sinh cầu nguyện tránh được “tham, sân, si, ái, ố, hỉ, nộ” của cuộc đời trần tục. Phải nói rằng, chùa Nhuệ Hổ còn được ông cha ta chọn lựa rất kỹ và có một sức linh nhất định.
Là ngôi chùa làng nhưng chùa Nhuệ Hổ không lúc nào vắng tiếng chuông ngân, làm cho cảnh chùa trang nghiêm ấm cúng. Chùa đã qua nhiều lần sư trụ trì, như: Sư thầy Ma-ha-Sa-di tự Hải Nhai, người Ngẫu Khê, Quỳnh Côi, Thái Bình. Thầy nói năng thành thực, tính hạnh chuyên cần, lòng dạ ngay thẳng, xử thế thiện tín, ái mộ thiền môn, thức khuya dậy sớm tụng niệm… “Ông đã mua bảy sào ruộng tại xứ Viên Thành, An Biên, Nghi Tỉnh, Mã Giai, Đồng Đỗ cúng vào chùa để làm ruộng hương hoả”. Ông mất ngày 19 tháng 7 năm 1792, xá lị được táng ở tháp bên trái trước cửa chùa.
Tháp của một nhà sư trụ trì chùa Nhuệ Hổ
Tồn tại suốt 400 năm, chùa Nhuệ Hổ đã trải qua bao lần trùng tu thay đổi được bia đá ghi lại như:
“…Ngày 20 tháng 12 năm Chính Hoà thứ 17 (1696) nhân việc trùng tu chùa, bà Lê Thị Nhiên hiệu Diệu Hương xã Nhuệ Hổ, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn đã cúng vào chùa một sào ruộng toạ tại số…….đông, tây, nam, bắc như trong địa bạ…”.
“…Năm Bính Ngọ (1786) Bản tổng thấy chùa Quảng Phúc nguyên là danh lam cổ tích do tiền nhân khai sáng lâu ngày, nay bị đổ nát điêu tàn. Quan viên hai thôn đồng lòng kính mộ làm thiền duyên, thiện sự, khai sáng thiền môn, thay cũ đổi mới, trồng nhiều cây cối làm cho cảnh chùa thanh u, cải tạo ruộng vườn để ngàn năm xanh tốt…”.
“…Ngày 15 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) hương lão và mọi người trong xã Nhuệ Hổ, huyện Đông Triều, phủ Kinh Môn (có tên trong bia) cùng với sư trụ trì chùa bỏ ra 15 chuỗi tiền xanh tô thếp tượng phật…”.
“…Ngày tốt tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) Hương lão chức dịch xã Nhuệ Hổ (có tên trong bia) và mọi người trong xã cùng nhà sư trụ trì chùa đã bỏ ra 5 quan tiền xanh tô lại tượng phật…”.
Bia đá ghi lại các năm trùng tu, tôn tạo chùa
Trải qua thăng trầm của lịch sử, một thời gian dài chùa không được quan tâm sửa chữa nên đã bị hư hỏng, mai một nhiều. Năm 1995 các phật tử gần xa đã tín tâm công đức tôn tạo xây dựng lại 5 gian tiền đường, sửa chữa lại 3 gian hậu cung, tô thếp lại tượng phật bị hỏng, bị mất. Hiện nay chùa đang được trùng tu tôn tạo lại khang trang với quy mô rộng lớn, xứng tầm với ngôi chùa mà người xưa đã tạo dựng.
Chùa Nhuệ Hổ hiện nay vẫn còn lưu giữ được gần như nguyên vẹn hệ thống tượng phật, đồ thờ tự, bia đá giá trị được sắp xếp đúng ngôi vị, càng làm tăng thêm vẻ linh thiêng thần bí cho chùa. Tượng ở đây được các nghệ nhân chạm khắc công phu tỷ mỷ tạo nên những pho tượng mang đầy đủ các hình dáng khác nhau, thể hiện nội tâm khác nhau. Những nét mềm mại nhưng khoẻ khoắn và dứt khoát cộng với hoa văn trang trí trên từng pho tượng thể hiện qua các thời kỳ đều mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm kho tàng tài sản hiện vật quí giá của vùng đất văn vật Đông Triều nói riêng, của tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Hiện vật mà chùa Nhuệ Hổ còn lưu giữ được đến ngày nay là tổng số 98 hiện vật cổ, trong đó có 15 pho tượng thời Lê. Đó là ba pho tượng Tam thế, một pho Adi đà cao 145 cm (chưa kể bệ) rộng vai 60 cm đây là pho tượng Adi đà lớn nhất trong các chùa còn lại ở Quảng Ninh nhưng đã bị hỏng phần đầu và vai bên phải. Bốn pho Thiên vương, một pho Quan âm Thị Kính, một pho Tuyết sơn, hai pho Quan âm bồ tát, một pho Thích ca sơ sinh, một pho tượng hộ pháp, một bia đá được làm vào năm Chính Hoà thứ 17 (1696), bốn pho tượng được làm vào thời Tây Sơn đó là một pho tượng Thánh tăng, hai pho tượng Quan thế âm, Đại thế chí, một pho tượng tổ, một bia đá được làm vào năm Cảnh Thịnh thứ nhất (1793), hai pho tượng được làm vào đầu thời Nguyễn đó là một pho tượng Đức Ông và một pho tượng mẫu, một bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), một bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 20 (1839) và nhiều đồ thờ tự khác có giá trị.
Chùa Nhuệ Hổ cũng như bao ngôi chùa khác đều có ngày lễ hội chính. Lễ hội chùa Nhuệ Hổ diễn ra từ ngày 20 đến 23 tháng Giêng hàng năm. Ngoài ra chùa còn có ngày lễ Phật Đản, ngày lễ Phật Adi đà, Phật Thích ca, ngày ba mươi, mồng một, mười tư, hôm rằm…
Với những giá trị trên, ngày 9/2/2001 Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ký Quyết định số 300/QĐ/UB xếp hạng chùa Nhuệ Hổ là di tích nghệ thuật cáp Tỉnh, đây là cơ sở pháp lý cho việc trùng tu tôn tạo chùa trong thời gian tiếp theo. Đầu năm 2016, Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Tỉnh đã khởi công dự án tu bổ, tôn tạo di tích chùa Nhuệ Hổ, tổng diện tích là 11.595m2 gồm các công trình tam quan, nhà tổ, chính điện, đình và nhà khách... với kinh phí trên 60 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa. Chùa Nhuệ Hổ đang dần được hoàn thiện, sẽ xứng tầm với vị thế xưa vốn có của chùa./.
Phan Thị Thúy Vân